|  Đăng nhập
Select the search type
 
  • Site
  • Web
Search

 

Vài ghi nhận về Giải thưởng Văn học-Nghệ thuật Đất Quảng lần thứ II
Đỉnh máu
Cánh cò chấp chới
Dòng sông ngày xa
Bài tìm thấy sau nhiều năm
Nghịch sông
Vai diễn
Mê khúc
Tam Kỳ
Bước ra từ cánh đồng
Cái nhìn
Ru em thủy thần
Xưa
Tiêu đề: Du Tử Lê, một đời sông ra biển
Tác giả: Phùng Tấn Đông


Du Tử Lê sinh ngày 10/11/1942 tại làng Vân Lâm, huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Sau Hiệp định Genève (1954), Lê Cự Phách (tên thật của Du Tử Lê) cùng gia đình di cư vào Nam. Đầu tiên ông định cư ở Phố cổ Hội An, sau đó ra Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn, theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An và Đại học Văn khoa.

Đời thơ Du Tử Lê cũng như thân phận của bao người Việt xa xứ, lúc nào cũng mang “nỗi sầu xứ” gần như chung mệnh. Bút hiệu Du Tử Lê lần đầu xuất hiện vào năm 1958 cùng bài thơ “Bến tâm hồn” đăng trên tạp chí Mai, xuất bản tại Sài Gòn.

Ngay ở bài thơ đầu tay, thơ Du Tử Lê đã nói về một xa lìa của hồn mình với dòng sông xứ Bắc, với mây trời, mưa lũ, với “bờ hoang, bến quạnh” và dường từ thủa tuổi 16 đã chất ngất trong ông một “nỗi niềm cố lý”: “Lênh đênh hồn phủ phương này/ Thương mưa Hà Nội nhớ mây Hồng Hà/ Mười năm dài những xót xa/ Bờ hoang bến quạnh thiết tha ngọn nguồn...”. Khi đọc “Năm mười sáu tuổi tôi chính thức khai sinh tên tôi lần thứ hai/ sau lần khai sinh của bố mẹ/ Từ đó tôi bắt đầu làm thơ/ tôi bắt đầu sống - bắt đầu đời tôi/ như con sông bắt đầu ra biển” (Tôi, Du Tử Lê), nhà phê bình Nguyễn Thị Khánh Minh phát hiện: “A. Vừa bắt đầu là có điểm hẹn với bao la rồi. Biển. Nhưng người thơ ơi. Bước hăm hở ấy qua mấy ghềnh thác?” (www.dutule.com).

Rồi trong dài dặc chiến tranh- trong vai một người lính của chế độ cũ, người thơ Du Tử Lê thường nói về sự cô đơn, điêu linh, hoang hoải, sự tàn hủy cả tạo vật bên ngoài lẫn bên trong tâm thức con người của chiến tranh: “đêm có sông/ có đồng cát lở/ đêm có khăn tang/ quấn phủ đầu mình/ đêm vuốt mặt anh-đêm ủ mặt em/ đêm có một mình-có một mình anh”. Du Tử Lê chọn nói về tình yêu đôi lứa như một miền đất hứa để cứu vãn những tàn hoại của chiến tranh nhưng chung cuộc thơ vẫn là kẻ thua cuộc: “người về đâu không người không về đâu/ chiều chưa mưa nên chiều chưa thay màu/ tôi cây me đứng rung từng lá/ lá vàng rồi tôi cũng vàng theo... khi người về tôi không buồn không trông/ lòng tôi sông nước đủ trăm dòng/ quanh co một nỗi buồn vô hạn/ qua suốt một đời vẫn nhớ thương” (Khi người về). Trước 1975, những người yêu thích tình ca thời chiến ở miền Nam thường nghe những bài hát mà ca từ được trích để phổ nhạc là thơ Du Tử Lê như “Trên ngọn tình sầu” (nhạc Từ Công Phụng), “Khi cuộc tình đã chết” (nhạc Phạm Đình Chương), “Khúc thụy du” (nhạc Anh Bằng)... Thơ Du Tử Lê thường viết về những cuộc tình dang dở, những chia biệt buồn sầu, đau đớn trên nền cảnh chiến tranh, tao loạn với ngôn từ gần gụi, dễ cảm nhưng không thiếu những thi ảnh lạ do sự chọn lựa đầy thi tính của người viết - điều mà khiến ngôn từ vừa tàn hủy vừa tái sinh khi được đứng cùng nhau trong câu chữ kiểu “tóc thề nẻo gió”, “mắt xa nghìn núi lạ”, “ngực hai mươi hai mốt”, “một hồn đầy môi người”, “mắt lá me”, “môi đưa bão gió”, “nhớ cơn mơ lẻ”, “đêm bưng mặt”, “máu rất buồn”... Thơ ông luôn ngơ ngác trước định phận tao loạn của tình yêu và thân phận trong thời chiến: “Như con chim bói cá/ tôi lặn sâu trong bùn/ hoài công tìm ý nghĩa/ của cảnh tình hôm nay” (Khúc thụy du). Quê hương và người tình luôn đồng nhất trong ông như một tình tự dân tộc, niềm yêu miên viễn mà ông khó dứt bỏ, vì lẽ ấy chăng mà năm 1977 khi xa cố xứ, ông có bài Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển: “Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển/ Đời lưu vong không cả một ngôi mồ/ vùi đất lạ thịt xương e khó rã/ hồn không đi sao trở lại quê nhà/ khi tôi chết hãy đem tôi ra biển/ nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi/ bên kia biển là quê hương tôi đó/ rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì...”. Thơ ông từ đó càng thêm day dứt vì nỗi sầu xứ như ông thú nhận: “Đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn”.

Du Tử Lê được giới nghiên cứu đánh giá là một khuôn mặt độc đáo-vừa rất dân tộc vừa rất đương đại của thơ Việt hải ngoại. Thơ ông được chọn (một trong năm tác giả Việt Nam) để in vào cuốn Thế kỷ XX: Thi ca Việt Nam khi tái bản tuyển tập World Poetry An Anthology of Verse From Antiquyti to Our Present Time (Tuyển tập thi ca thế giới từ xưa đến nay) của nhà xuất bản W.W.Norton, New York, năm 1998.

Du Tử Lê có nhiều đóng góp vào việc cách tân thơ lục bát theo lối chấm, phẩy, cách dòng giữa câu kiểu như “đứng. đi. tôi đó. nói. cười/ lúc quay lưng lại tôi ngùi, ngậm tôi”, “cuối cùng đời xuống mênh mông/ hồn đi thu bãi, lòng không, tiếp trời” (Mưa hình dung H.T). Du Tử Lê có những câu thơ hay đến “lạnh người” khi ông nhớ mẹ, nhớ nơi chôn nhau cắt rún, nhớ cả chiếc nhau mình “gọi ai gió nổi bốn trời/ chiếc nhau tôi lạnh phía đời bên kia” (Thấy bình minh trên sa mạc Utah, nhớ mẹ già).

Cuối cùng thì người thơ đa đoan với nỗi buồn nhớ ấy đã quay về tuổi nhỏ, với dòng sông cố lý bằng hành trình “thiền ý” - một quy hồi tâm tưởng và một “điểm hẹn rực rõ” (chữ của Khánh Minh) đầy nhân bản ở nẻo về: “cúi xuống một dòng sông/ nhớ gì không bé dại?/ nghe tự hồn lược gương/ tuổi thơ quành bước lại...”.

Du Tử Lê có hai lần trở về quê hương. Lần thứ nhất bằng tác phẩm, đó là tập Thơ Du Tử Lê do Nhà xuất bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh in năm 2005 và lần thứ hai ông về bằng xương bằng thịt vào đầu tháng 6/2014 đồng thời với việc xuất bản tập thơ Giỏ hoa thời mới lớn (Công ty truyền thông Liên Việt phối hợp với Nhà Xuất bản Hội Nhà văn ấn hành-2014). Đã 40 năm xa xứ, thơ Du Tử Lê như một ấn chứng của những liền lạc trong tâm thức người Việt sau những đoạn lìa, mất mát, những ngộ nhận không tránh khỏi bởi chiến tranh và vì chính thơ đã soi sáng con đường hòa hợp, bởi mãi mãi thơ mang những tự tình dân tộc khó lòng dứt bỏ.

P.T.Đ
Quay về
THƠ
Tôi bay
Đảo xinh
Bên ngoài ô cửa
Còn ai nữa...
Thinh không
Có gì
Viết cho một người ở Ninh Bình
Cánh diều đứt dây
Mùa xưa không tàn trong tiếng ngân
Viết trong chiều mưa
NGHIÊN CỨU-LÝ LUẬN-PHÊ BÌNH
Thu Bồn, một hồn thơ đậm đà chất Quảng
Báo chí trong buổi đầu tiếp nhận văn học Pháp
Du Tử Lê, một đời sông ra biển
GÓC NHÌN NGƯỜI TRONG CUỘC
Những bài học thực tiễn của báo chí đất Quảng trong giai đoạn hiện nay
VĂN HỌC-HỌC VĂN
Hạ ơi!